Quê Hương Của Tôi
Chiều
chiều ra đứng ngõ sau
Trông
về quê mẹ ruột đau chín chiều
Ngày
rời Việt Nam, mẹ tôi đưa cho tôi một
nắm đất lấy từ sau vườn. Không
hiểu
sao
mỗi lần nhìn lại nắm đất đựng
trong chiếc hộp nhựa trong suốt, tôi luôn luôn
nghĩ trong nắm
đất có giọt nước mắt mẹ tôi.
Mẹ tôi bảo khi đến nơi lạ,
nướng nắm
đất lên rồi
nấu nước uống, sẽ tránh được
bệnh “lạ nước lạ cái”.
Tôi
không làm theo lời mẹ tôi khi đến nước
Mỹ. Tôi muốn giữ nguyên nắm đất quê
nhà. Tôi cũng
không muốn nước mắt mẹ tôi tan loảng vào
thứ nước lạ. Dường như
nắm
đất đã đem lại cho tôi những may mắn
nào đó trên bước đường tha hương,
nên
di chuyển
đến nơi nào, tôi cũng mang theo. Lúc nào nắm
đất cũng nằm cạnh hình ba
tôi trên bàn thờ.
Tôi
sinh ra bên kia bờ vĩ tuyến, cuộc đời
nổi trôi dọc theo chiều dài đất
nước.
Một
tuổi thơ bơ vơ nơi làng quê nghèo đói,
được kết thúc bằng chặng
đường cam go
để vượt
qua giòng Bến Hải gặp lại ba tôi. Những
năm tháng miệt mài trong các
trường nội trú.
Nghiệp thư sinh đầy hứa hẹn đành
dang dở để đi theo tiếng gọi
của non sông.
Hết chiến tranh, tôi bị lùa vào hơn mười
trại tập trung đầy ải và
thù hận
của Bắc quân. Ra khỏi vòng lao lý là những ngày
mưu sinh cùng cực bằng
đủ phương
kế để sống sót. Rồi bổng nhiên như
có tấm thảm thần đưa tôi đến
một
thế giới khác.
Những
năm tháng cuối đời tha hương, ngày lao
đao với sinh kế, đêm về bồi hồi
nhớ
người nhớ
cảnh, cái đau thân xác sao bằng cái đau trong
hồn. Có khi nghĩ về cuộc
đời
bèo dạt của mình đã gắn liền với
vận nước, như đứa bé bám vào vú mẹ
đầy
thương tích trên
quốc lộ máu trong chiến trận Bình Long.
Người mẹ cuối cùng đã
chết, nhưng
đứa con mồ côi phải sống. Tự thâm sâu
của lòng mình, như có một chất
liệu
còn sót lại, không là hoài bảo ngày xưa, không là mưu
cầu hôm nay, cũng
chẳng
phải là ước vọng ngày mai cho riêng mình: tình yêu
quê hương và món nợ đất
nước.
Tôi
muốn về thăm mẹ tôi lần cuối
trước khi bà ra đi.
Trước
ngày trở về, tôi nhìn nắm đất hằng
giờ, ước hẹn ngày trùng phùng một quê
hương đã bỏ
lại sau lưng. Quê hương chính là người
mẹ đưa tôi vào đời, dẫn tôi
đến
trường, nhắn nhủ ngày tôi lên đường
nhập ngũ, vỗ về tôi trong cơn tuyệt
vọng
chốn lao tù, và
đôi khi trong đêm tối loé sáng mời gọi về
tương lai.
Như
chuyện thần thoại bí ẩn hay chuyện võ lâm
hoang đường, ai đã cấy vào lòng
đứa bé một
hạt giống ngày cất tiếng khóc chào đời:
làng quê tôi. Mảnh đất chôn
nhau cắt
rốn ấy đã ấp ủ tôi, nuôi tôi khôn lớn,
và theo tôi suốt cuộc đời.
Làng
tôi nghèo nhất vùng, không có sông, chẳng có núi, chỉ có
những mảnh ruộng
nhỏ. Nuôi sống
dân làng vào mùa khô là những gánh củi, bó mây, lấy
từ những cánh
rừng rất xa.
Nghề đan lát là sở trường của dân làng
giúp miếng cơm manh áo vì
lúa khoai không
đủ ăn. Mùa đông, những ngọn gió thổi
từ Lào qua lạnh thấu xương.
Không
có chăn mền, anh em tôi phải vùi vào lớp rơm
vây quanh dưới giường. Không
manh
áo, lạnh run với cái quần cụt, chiều
chiều ngồi ở ngạch cửa, anh em tôi
ngóng
chờ mẹ trở về từ cánh đồng Lâm
Xuân hay từ ngôi chợ Hòa Ninh ở đâu đó
thật
xa.
Khi
ba tôi trốn chạy Việt Minh rồi biền
biệt phương Nam, thì ở quê nhà mẹ tôi
tất bật
với ruộng đồng nuôi đàn con thơ dại.
Những khi nghe ai hát bài Bà Mẹ
Quê,
tôi cứ nghĩ bà mẹ trong bài hát chính là mẹ tôi vất
vả trăm chiều nuôi một
đàn
con chắt chiu - bà mẹ quê, hôm sớm không nề hà chi
- bà mẹ quê, ngày tháng
không
ao ước gì, nhỏ giọt mồ hôi, vì đời
trẻ vui …
Nhưng
rồi, mẹ và anh em tôi phải rời quê cha
đất tổ, theo đoàn người di cư vào
Nam.
Tôi mang theo trọn vẹn hình ảnh ngôi làng quê và
những kỷ niệm tuổi ấu thơ.
Anh
em tôi gặp lại ba tôi mừng mừng tủi
tủi, khi ông trở về từ một cuộc hành
quân
dài ngày ở Quảng Trị. Một đời cho gia
đình, thế mà ba tôi đành biệt âm
trong
Nam mấy năm trời, sau này tôi mới biết,
nếu ở lại quê nhà, ba tôi sẽ bị
quy chụp là
phản động, làm sao thoát được những
màn đấu tố man rợ của Việt Minh.
Đối
với tôi, ba tôi là hình ảnh của lòng chung thủy, là
cây đại thụ của gia
đình. Những
ngày cuối cùng trên giường bệnh, trong cơn
đau nát ruột của căn
bệnh,
với trí nhớ khác thường, ba tôi đã kể
lại cho tôi nhiều chi tiết về giòng
họ, để
có cuốn gia phả đầy đủ ngày hôm nay.
Từ
miền Trung xuôi về Nam như đi trong khung trời
mới thênh thang, nhưng dường
như vẫn có gì
trống vắng, như thể nửa phần hồn
tôi đã để lại quê nhà.
Ngày
đi học ở Tam Kỳ, một hôm tôi bỏ
học theo một đứa bạn cùng lớp, lang
thang
vào một ngôi
làng. Lạc đường, mỏi chân, đói bụng,
hai đứa ghé vào một ngôi nhà
tranh. Nghe
tiếng chó sủa, một bà cụ già chầm chậm
chống cửa lên. Khi biết chúng
tôi đi
lạc, bà kêu một đứa cháu dẫn
đường.
Trước
khi đi, bà lấy cây sào chọc trái đu đủ
chín cho chúng tôi ăn. Bà nhìn hai
đứa bé đói
ăn sạch trái đu đủ. Tôi ngước
mắt nhìn lên khuôn mặt bà. Ôi chao,
khuôn mặt bà sao
giống khuôn măt bà cố ngoại tôi ngày tiễn gia
đình tôi vào Nam.
Da
nhăn nheo, mái tóc bạc, mắt xa xăm, nhưng sao
nét mặt đầy nhân hậu. Phải
chăng, đó là nét
nhân hậu trên mọi khuôn mặt những người
mẹ Việt Nam.
Năm
lớp ba Tiểu Học ở Mộ Đức, để
đến trường, tôi phải đi bộ mỗi
ngày gần bốn cây
số
đường làng. Ngôi trường mái ngói chỉ
một gian dành cho hai lớp học chung nằm
giữa ruộng
mía... Giơ tay xin thầy đi tiểu là tôi lọt
giữa ruộng mía ngọt lịm tha
hồ mà cạp.
Thầy
Ba thương tôi nhất lớp vì tôi không can dự vào
việc chia phe đánh lộn. Tan
học,
thầy bắt tôi đi theo thầy một đoạn
trên đường về, đôi khi mưa gió, tôi
được
nép sát vào lòng
thầy. Một hôm, sau bài tập đọc Ngày Nay
Học Tâp, Ngày Mai Giúp
Đời,
thầy xoa đầu tôi và hỏi tôi lớn lên có
muốn làm tổng thống không. Cho đến
bây
giờ, đã học qua bao nhiêu thầy, đối
với tôi, thầy Ba là người thầy tôi
ngưỡng
mộ nhất, vì thầy đã gieo vào lòng tôi ý niệm
giúp đời ngay từ khi còn
nhỏ.
Tôi
không được làm tổng thống như thầy mong
muốn, nhưng tôi hãnh diện đã đứng
trong hàng ngũ
cầm vũ khí bảo vệ mảnh đất quê
hương mình. Ước gì tôi được về
lại
Mộ
Đức tìm thăm mộ thầy để thắp
một nén nhang của đứa học trò thầy
thương nhất
lớp. Thầy Ba,
chẳng bao giờ con quên được thầy, dù
đã hơn năm mươi năm trôi qua.
Tết
Trung Thu ở Sa Kỳ, trường tổ chức
rước đèn. Trên đường quê leo lét
những
ngọn
đèn dầu, đoàn người với những
lồng đèn Trung Thu đủ loại, xen kẽ
những con
ngựa giả
đi một vòng ngôi làng. Đi qua mỗi nhà, lại
thấy dân chúng và trẻ con
thích thú nhập
vào giòng người.
Trở
về lại trường, học sinh reo lên khi nhìn
một dảy thúng kẹo của quân đội mang
đến. Đứa
nào cũng căng đầy túi bánh kẹo. Chiến
tranh ở một nơi nào đó, còn xứ Sa
Kỳ
này vẫn thanh bình êm ã. Không phải ngôi làng tôi, nhưng
sao tôi yêu thương
mảnh đất
này như chính nơi mình đã sinh ra.
Năm
1962, trường Thiên Hữu ở Huế tổ
chức đi xe đạp xuyên tỉnh. Hơn ba
mươi học
sinh
vượt đường dài sáu mươi cây số,
ghé Quảng Trị một đêm, sáng hôm sau đi xe
đò ra Bến
Hải. Đứng bên này cầu Hiền Lương,
tôi nhìn lá cờ thật dày cứng đơ bên
kia sông, trong khi
lá cờ vàng bên này uốn lượn trong gió ban mai. Nhìn
về xa
xăm, tôi tự
hỏi, làng tôi đâu đó cuối chân trời, bây
giờ ra sao? Bà cố tôi còn
sống hay đã
đi vào lòng đất?
Mấy
anh lính chèo đò đưa học sinh ra gần giữa
sông. Lảng vảng gần giữa giòng vài
chiếc thuyền
nhỏ. Một người lính cho hay, đó là thuyền
của những nhân viên hợp
tác xã miền
Bắc, nhưng họ là những tên do thám thay nhau dò
chừng phía Quốc Gia.
Tôi
hỏi người lính làm sao có thể về thăm quê
tôi, anh trả lời: “Họ sẽ cho em
về, nhưng
không bao giờ em được trở lại miền
Nam”…
Tôi
thầm thì với nắm đất, như thì thầm
với bà con nội ngoại ngày xưa đã nuôi tôi
khôn lớn…
Số
phận tôi luôn luôn sống xa gia đình. Ngay từ
ấu thơ, tôi đã không có vòng tay
ba tôi. Di cư
vào Nam, tôi ở với gia đình được vài
năm, sau đó ba tôi gởi vào
các
trường nội trú. Khi lớn lên, ba mẹ tôi vào
lập nghiệp mãi tận rừng già Bình
Long,
tôi vẫn ở lại Huế đi kèm trẻ
để có phương tiện tiếp tục học
hành. Bước vào
quân ngũ, tôi
đóng quân những đơn vị xa nhà. Những ngày
về phép đối với tôi quý
như vàng. Tôi thích
lẩn quẩn bên gia đình vui đùa, ăn
uống, chụp hình kỷ niệm.
Đôi
khi tôi tự hỏi, sao các anh em khác luôn luôn
được sống bên cạnh ba mẹ, mà
tôi lại
chịu cảnh xa gia đình. Có phải vì thế mà tôi
thường hay tủi thân mỗi khi
nhìn thấy
một gia đình ấm cúng.
Đời
lính ngang dọc, đi qua những ngôi làng, tôi
thường liên tưởng đến ngôi làng
nghèo đói
của mình. Tiếng chó sủa về đêm, tiếng
khóc trẻ thơ, ruộng bắp sắp đến
ngày
hái, những ống quần xăn cao trên cánh
đồng vào mùa cấy lúa, những ánh mắt
ngây thơ hay
những khuôn mặt nhăn nheo là những hình ảnh
dễ làm tôi xúc động.
Một
đôi khi, nhớ tuổi thơ, ao ước một
ngày nào đó được về lại quê mình, tôi
thường rướm
rướm nước mắt như một đứa
bé.
Lúc
còn dưới mái học đường hay khi đã vào
lính, tôi thường nắn nót chép lại
những bài hát về
quê hương. Tôi thích những bài hát nói về xóm nghèo,
cánh đồng,
cây
đa đầu làng, những con đường xưa
lối cũ, hát lên là nghe rung động từng
đường gân thớ
thịt…
Tôi
ngắm nhìn nắm đất quê hương, muốn
một lần tạ tội với tổ tiên bởi
mình đã
không
được làm gì để ngăn giòng thác bạo
lực…
Một
miền Nam đang sống no ấm với ruộng
đồng, bỗng nhiên những kẻ lạ mặt
đến ép
buộc
tiếp nhận những điều họ không bao
giờ cần đến, và bị tước
đoạt đi những thứ
họ đang
cần cho cuộc sống. Tàn phá và gieo chết chóc
được biện minh cho những
nhu cầu xây
dựng một thiên đường xa vời. Trong
đầu óc non nớt, đứa bé như tôi
chỉ thấy
sự tàn ác và phi lý. Người lính chết ngoài
trận địa, nhưng bom đạn cũng
không tha
người dân quê. Nhà cháy, cầu sập, những thi
thể máu me của người dân
lành đã
tạo ra những câu hỏi nhức nhối cho cậu
bé còn trên ghế nhà trường. Tôi
chưa
hiểu được những nguyên nhân gây nên chiến
tranh, nhưng tôi mơ hồ những thôn
tính miền Nam
được điều khiển từ một
nơi nào đó rất xa. Có lẽ những đêm
đấu tố ở
làng
Thọ Linh anh em tôi chứng kiến trước ngày di
cư vào Nam như là những cảnh
báo một
miền Nam yên lành sẽ đến phiên mình.
Cuộc
đổi đời bắt đầu từ ngày 30
tháng tư năm 1975, đã tạo ra một thảm
kịch toàn
diện. Kẻ ra
đi chia lìa thân thuộc, để tìm hơi thở
tự do bất chấp sống chết
trong rừng sâu
hay biển rộng. Người ở lại bị
tước đoạt gia sản, bị kiểm soát
lối
sống và cả
giòng tư tưởng. Những người vô sản
từ rừng núi nào đó chui ra thành
phố,
trong phút chốc nghiễm nhiên thành những tay giàu có, mà
hai mươi năm trước
đây chính họ
đã mở chiến dịch đấu tố.
Một
khuôn mẫu tổ chức kỳ lạ vay mượn
từ một nơi xa lạ, bỗng nhiên áp đạt
vào một
xã hội
được xây dựng từ hằng ngàn năm nay.
Nền móng bị xới tung, thay vào đó
những
luật lệ kỳ quái, những lời dạy
bảo của những con người rừng rú không
cần
chữ nghĩa. Gia
đình, đạo đức, truyền thống, tình
tự dân tộc trở thành vô nghĩa.
Cướp
bóc, tận diệt, dối trá trở thành những tiêu
chuẩn đạo đức của một chủ
thuyết lạ lùng
không có huyết thống nào với dân tộc. Cùng
khắp miền Nam phủ trùm
nỗi
sợ hãi, khiến có người hăng say phất
cờ mọi nẽo phố chứng tỏ đồng
tình, rút
vào
rừng sâu làm kẻ tiền sử, hay đành phó
mặc số phận cho chủ nhân mới định
đoạt.
Có
phải họ là những sứ giả đến
từ địa ngục? Họ say sưa triệt phá
xã hội hiện
tại,
hứng thú thiết lập xã hội mới, sẽ
đi về đâu có lẽ họ cũng chưa hình
dung
được. Họ
gọi đó là xã hội chủ nghĩa... Từ
đây, bào thai mới tượng hình hay cụ già
cong lưng trên
thửa ruộng cần phải được thay máu
mới. Họ gọi máu đó là tư tưởng
Mác
Lê. Theo lời họ, thiên đường cộng
sản với thế giới đại đồng,
một ngày không
xa nữa,
chỉ cần đưa tay ra là có thể đón
lấy.
Tôi
hăm hở trốn chạy cái thiên đường
đó, bỏ lại gia đình, quê hương, ngôi làng.
Tôi
không nghĩ mình sẽ có ngày trở lai. Ngày rời quê
hương, tôi không biết mình
may mắn hay bất hạnh. Ngôi làng
tôi, quê hương tôi dường như đã thuộc
về quá
khứ.
Nhìn nắm đất,
tưởng như đây là nắm đất thành Sion
mà dân Do Thái mơ về, những
ngày lưu đày bên bờ sông Babylone.
Suốt một tuần
lễ chăm sóc mẹ tôi vừa thoát cơn bệnh
thập tử nhất sinh, hầu như
tôi không có thì giờ để nhìn
sự đổi thay của đất nước. Cho
đến khi về Sài Gòn
chuẫn bị về quê, tôi mới giật
mình. Xứ sở này đang thay đổi với
tốc độ chóng
mặt. Chiều hướng thay đổi
rõ ràng không nhắm vào những công ích xã hội hay
những
người nghèo khổ, mà như chỉ phục
vụ tầng lớp cầm quyền.
Ngoài đường xe
cộ đủ loại lao đi như bị một
lực phía sau thúc đẩy, để phóng đến
những mục tiêu nào đó thật xa không
định hình được. Nhà cửa nguy nga mọc
lên phô
diễn quyền uy của những chủ
nhân mới. Trên đường phố, trong chợ, nhan
nhản hàng
giả bày bán công khai. Sự gian dối trong
buôn bán hay giao tiếp như một nhu cầu
để sống còn.
Trong câu chuyện với
những người tiếp xúc, tôi không gặp
được mấy người lưu tâm
đến sinh tồn của đất
nước. Đôi khi họ mù mờ về những
thông tin trong nước mà
người hải ngoại biết rất rõ.
Giới trẻ hối hả lao vào những dịch
vụ mới lạ có thể
đem về lợi tức nhanh chóng. Có
lẽ bởi không còn khả năng nhồi nhét lý
thuyết
không tưởng vào
giới thanh niên, để sống còn, người
cộng sản đành dùng sách lược
cuối cùng, là tạo ra
một lớp người chỉ biết kiếm
tiền và hưởng thụ để tiêu diệt
mọi mầm mống thay đổi hay
phản kháng.
Trong một quán phở
ỏ ngoại ô Sài Gòn, một em bé đến mời tôi
mua vé số. Trên ngực
còn phù hiệu học
sinh, cô bé khoảng mười tuổi, hơi nhỏ
con, mắt rất sáng nhưng
tiếng nói lại quá nhỏ. Tôi lấy
một tấm vé và đưa cho em tờ hai mươi
đô. Em ngơ
ngác không dám nhận, em
nói chưa bao giờ thấy loại tiền này, chỉ
xin một ngàn
đồng tiền Việt. Tôi hỏi thăm em
vài câu trong lúc vét hết mớ tiền Việt trong
túi.
Cha em đạp xích lô
vừa bị tai nạn đang nằm bệnh viện,
mẹ em bỏ gánh hàng rong
vào nuôi người bệnh. Hai
đứa em nhỏ gởi ông bà nội. Tan học là em
ra đại lý nhận
vé số đi bán, mỗi ngày kiếm
được mấy lít gạo cho gia đình.
Cầm mấy trăm
ngàn trong tay mà môi em run run, mắt em ươn
ướt. Em lí nhí cám ơn,
rồi lặng lẽ ra
đi. Trước khi khuất vào một con hẻm, em
còn ngoái lại nhìn tôi
thật lâu. Ước
gì có một tay nhiếp ảnh nhà nghề lúc này. Ông ta
sẽ làm mờ đi mọi
thứ chung quanh,
điều chỉnh máy vào đôi mắt của em,
để có tấm hình về một sản
phẩm của xã
hội. Trong đôi mắt em, có nét đẹp của
lòng hiếu thảo, có nét ngây
thơ của thiên
thần, thiên thần bị đọa đày xuống
trần gian Việt Nam. Có khác chi
tấm ảnh đã
phổ biến rộng rãi trên truyền thông, vào giai
đoạn thế giới đã cạn
nguồn từ tâm
với những người tỵ nạn khốn
khổ: tấm hình đứa bé ngồi sau hàng kẻm
gai trại tỵ
nạn Hồng Kông trước ngày đóng cửa.
Tận cùng một con
hẻm ở quận Ba, tôi gặp một cựu viên
chức chế độ miền Nam. Ông
nguyên là giáo sư Sử
Địa. Ông quanh quẩn trong căn phòng với sách
vở, dạy dỗ con
cháu, chiều chiều
làm bạn với bông hoa. Ông thường không trả
lời các câu hỏi,
chỉ thở dài. Ông nói
ông không muốn dạy địa lý cho con cháu, e rằng
không thể
cầm phấn mà vẽ
lại bản đồ Việt Nam. Ông cũng không
muốn dạy lịch sử, e rằng
không còn đủ
sức nói hết pho sử của những tên gian hùng
thời đại. Ông lại thở
dài. Ông chỉ dạy con
cháu đạo lý làm người.
Cuối cùng, ông cũng
có cái nhìn rốt ráo về những người đang
cai trị: đừng mong
cảm hóa người
cộng sản. Nói rồi ông lại thở thật dài.
Tôi ra về, bị ám
ảnh về tiếng thở dài sau năm 1975. Một
cán bộ cao cấp của Mặt
Trận Giải Phóng
bị lột sạch công lao, bị tước
đoạt mọi quyền làm người, chỉ
được
tự do … đi lại
trong nhà, không một phản ứng nào ngoài tiếng
thở dài. Một điệp
viên nhị trùng sau khi
hoàn tất sứ mạng trong lòng đối
phương, tưởng rằng sẽ trở
thành anh hùng đi vào
lịch sử, đâu ngờ phải ký tên vào bản cam
kết im lặng cho
đến khi
bước qua thế giới bên kia. Đành thở dài
cho hết kiếp. Một cán bộ “Câu
Lạc Bộ Kháng
Chiến”, ngao ngán tình đồng chí, bị cô lập, ôm
mớ huy chương trong
tay mà thở dài.
Tôi đi giữa phố
phường, bàng hoàng nhìn lớp son phấn mới,
bỗng thấy mình như một
Từ Thức từ
cảnh tiên trở về, không phải ngỡ ngàng nhìn
quê hương không còn người
xưa cảnh cũ, mà
nghĩ đến hai câu thơ của nhà thơ Trần
Dần.
Tôi bước đi
không thấy phố, không thấy nhà
Chỉ thấy mưa sa
trên màu cờ đỏ
Tôi trở về ngôi làng
yêu dấu của tôi. Mới đó mà đã năm
mươi năm như bóng câu qua
cửa. Câu hỏi
lẩn quẩn trong đầu tôi suốt chặng
đường dài xuyên Việt: làng tôi,
ai còn ai mất?
Đón tôi ở nhà ga Minh
Lệ, những người bà con vẫn với cái
giọng miền quê ngồ ngộ,
họ ôm chầm lấy
tôi như vừa tìm lại đứa con thất
lạc nửa thế kỷ nay. Tôi đã về
lại giữa vòng tay
của thân thuộc và xóm làng. Một vài đứa em
lặng lẽ lau nước
mắt. Bút nào tả
hết cái tình người cùng quê cha đất tổ,
chỉ có những người trong
cảnh ngộ mới
hưởng được thứ hạnh phúc
đẫm nước mắt này.
Việc đầu tiên
là nhờ mấy cậu dẫn tôi tìm lại căn nhà
ba mẹ tôi. Tất cả đã thay
đổi. Mảnh
đất hiện do một người người
cậu tàn tật ở, với căn nhà tranh xiêu
vẹo,
khác xa với căn nhà
ba gian xinh xắn ngày xưa, cột bằng gỗ lim,
mái bằng cây
vọt, với hai cây mít
sây trái sau nhà.
Chỉ còn vết tích cây
khế cuối vườn, ai đã cưa đến
tận gốc, nhưng vẫn còn mọc ra
những nhánh con xum xuê.
Tôi đứng lặng người nhìn cây khế mà
nhớ đến ba mẹ tôi
đã đổ bao
mồ hôi gầy dựng cơ ngơi này.
Tôi nhắm mắt
lại hồi tưởng những ngày thơ dại.
Ôi chao, đây là mảnh đất tôi đã
sinh ra, lớn lên
giữa vòng tay nội ngoại. Một tuổi thơ
nghèo đói nhưng êm ái
biết dường nào.
Cho đến khi Việt Minh về làng mở những
cuộc đấu tố ngay trước
nhà thờ, bắt
trẻ con học nhảy những vũ điệu
Trung-Xô, thì tuổi thơ tôi là những
ngày nơm nớp sợ
hãi. Co ro trong đống rơm dưới
giường, anh em tôi cứ mơ tưởng ba
tôi trở về đem
mấy mẹ con đến một nơi nào đó.
Tôi đã về lại
với những dấu tích xưa. Nhưng dường
như những dấu tích ấy đang bị
phủ lên một màu
sắc kỳ lạ. Toàn thể ngôi làng được
phân từng lô nhỏ vì dân làng
sinh nở đông
đảo, cây lúa được cấy sát vách nhà vì
không đủ đất. Luỹ tre xanh,
con đường um tùm
cây dứa xuyên qua làng dẫn đến một
đầm nước nổi tiếng nhiều ma
trơi, hai cây ngô
đồng trước nhà thờ, nơi diễn ra
những cuộc đấu tố cuối cùng,
tất cả đã
biến mất. Cái nghèo dường như còn nghèo
hơn năm mươi năm trước. Cảnh
vật cũ không còn
nữa mà là một bức tranh xa lạ. Ngôn ngữ dân
làng dùng trong
giao tiếp mang một
âm điệu khó nghe. Cung cách nói năng như phải
tuân theo một
khuôn mẫu nào đó.
Chỉ còn một
thứ quen thuộc: tiếng chuông nhà thờ. Nhưng là
tiếng chuông mời gọi
tín đồ đến
sám hối, nghe ra không là tiếng chuông loan báo điềm
lành tương lai.
Những kẻ tội
đồ của dân tộc sao không đến tòa
giải tội, mà nạn nhân lại cầu xin
Chúa thứ tha? Thôi thì
nghe theo lời một linh mục, việc Chúa làm
người thế gian
không tài nào hiểu
được.
Buổi sáng từ giã,
đứng trên mảnh đất thân yêu, nước
mắt lưng tròng, tôi mơ hồ
làng quê tôi đã mất.
Chiếc túi đang mang trên vai đựng máy chụp
hình, máy quay
phim, trở thành vô
dụng. Thôi thì tất cả hình ảnh thu
được bằng mắt hôm nay hãy
để vào một góc
trong tâm tưởng.
Quê hương tôi, sau
ngày im tiếng súng, tưởng đã thấy hòa bình,
lại vỡ ra từng
mảnh. Mẹ lên núi tìm
xương con mình, con bỏ trường bỏ lớp
bươi rác kiếm ăn, cha
đi hết trại
giam nầy đến trại tập trung khác. Mảnh
vỡ văng bốn phương trời, qua
các nhà chứa trên
đất Miên, đến hòn đảo xứ Tàu làm nô
lệ, trôi dạt mãi tận
phương Tây mà
sống sót, và một mảnh vỡ bất hạnh
đã chìm xuống tận biển sâu làm
những oan hồn
lịch sử. Bên kia biển Thái Bình, ruột đã
đau chín chiều, về đây
lòng bỗng quặn
thắt.
Nhưng người
Việt Nam sẽ không là người Do Thái bên bờ sông
Babylone, than khóc
thành thánh Sion.
Người Việt Nam nặng nợ với non sông
biết mình sẽ phải làm gì
để mời
gọi con cháu dự phần vào việc xây dựng
tương lai Việt Nam. Một Việt Nam
cho dân tộc Việt
Nam, với màu lúa chín vàng rực, không là màu máu đang
nhuộm lên
đất nước
này.
Tôi có một
người bạn đến cư ngụ tại
tiểu bang Massachussetts, lúc mà đốt đuốc
ngày đêm mới tìm
được vài người Việt Nam. Anh cảm
thấy lạc lõng từ ngoài đường
phố, nơi làm
việc đến khi về nhà. Một hôm ghé vào
tiệm thuốc tây, anh chợt nghe
phía sau kệ hàng
tiếng hai mẹ con nói chuyện. Tiếng nói nghe quen
quen. Lại gần,
anh sững sốt
nhận ra họ nói tiếng Việt.
Bà mẹ trẻ chưa
đến ba mươi, đứa bé gái khoảng sáu
bảy tuổi. Anh lặng lẽ theo sau
họ một khoảng
cách thật lâu, cho đến khi hai mẹ con hốt
hoảng biết có người theo
dõi. Anh luýnh quýnh, thú
thật bao nhiêu năm nay không được gặp
một người nào
nói tiếng mẹ
đẻ của mình. Đối với anh, nghe họ
nói chuyện với nhau bằng tiếng
Việt như thấy
lại được quê hương.
Lần đầu tiên
trong đời, tôi tổ chức mừng sinh nhật
cho mình. Tôi không mời một
ai ngoài con cháu. Nhìn
mấy đứa cháu ngoại quanh quẩn bên mình, tôi
cảm nhận một
thứ hạnh phúc
lạ lùng vượt lên những hạnh phúc riêng tư
đời thường. Ðứa nhỏ nhất
bốn tuổi,
đứa lớn nhất đã lên tám. Sau cái chết
tức tưởi của đứa con đầu lòng,
hôm nay tưởng
chừng Thượng Ðế đã bù đắp lại
cho tôi bằng những đứa cháu xinh
ngoan. Chúng nói tiếng
Mỹ như suối chảy ở trường
học, chúng ăn đồ ăn Mỹ mỗi
ngày, chúng hưởng
tiện nghi dồi dào của xã hội, nhưng chúng
vẫn nói tiếng Việt
mỗi khi sà vào lòng tôi.
Hôm nay tôi cũng
hưởng được thứ hạnh phúc tuyệt
vời như người bạn khi nghe bên
tai những đứa
cháu líu lo tiếng mẹ đẻ - tiếng của quê
hương ngàn đời, từ lúc
chào đời
đến khi về với lòng đất. Trong nỗi
đau chín chiều nơi xứ lạ quê người,
tôi vẫn còn quê
hương bên mình.
Nén hương lòng cho
người đã sinh ra con
Chu
Lynh
|